Bài học 5

Lớp văn bản

Bài này giải thích cách sử dụng và tùy biến một số lớp văn bản thông dụng trong việc thiết kế văn bản.

Lớp văn bản làm gì?

Bạn có thể để ý rằng tất cả các ví dụ ta đã xét đều bắt đầu với một dòng \documentclass (‘document class’ nghĩa là lớp văn bản), và \documentclass{article} là lựa chọn thường dùng nhất. (Ta cần \documentclass{report} trong bài trước để thử câu lệnh \chapter.) Dòng này là bắt buộc, và hầu như trong mọi trường hợp, đó nên là câu lệnh đầu tiên trong văn bản của bạn.

Lớp văn bản đưa ra các thiết lập chung cho văn bản, ví dụ

Lớp văn bản cũng có thể thêm nhiều câu lệnh khác, ví dụ như các lớp văn bản để tạo văn bản trình chiếu.

Dòng khai báo lớp văn bản cũng có thể nhận một số tùy biến: những lựa chọn được áp dụng vào cả văn bản. Chúng được khai báo trong cặp ngoặc vuông: \documentclass[<lựa chọn>]{<tên lớp>}. Cú pháp này, với những tùy biến không bắt buộc được đưa vào cặp ngoặc vuông, được dùng trong nhiều câu lệnh LaTeX.

Các lớp văn bản cơ bản

LaTeX có một hệ các lớp văn bản cơ bản. Chúng khá giống nhau, nhưng có một vài điểm khác biệt:

article, reportbook có những câu lệnh rất tương đồng nhau, như ta đã thấy. Khi viết bằng letter, các câu lệnh có hơi khác một chút

\documentclass{letter}
\usepackage[T1]{fontenc}
\begin{document}

\begin{letter}{Some Address\\Some Street\\Some City}

\opening{Dear Sir or Madam,}

The text goes Here

\closing{Yours,}

\end{letter}

\end{document}

Ta thấy \\ được dùng để tách dòng bên trong phần địa chỉ, ta sẽ xem xét việc tách dòng trong một bài sau. Ta cũng thấy rằng letter đưa ra một môi trường mới cho mỗi bức thư và cũng có những câu lệnh đặc biệt

article, reportbook nhận một số tùy biến như 10pt, 11pt, 12pt để chuyển cỡ chữ, hay twocolumn để chia phần thân văn bản thành hai cột. Chú ý rằng 14pt, 8pt hay threecolumn không phải là các tùy biến của các lớp này (đây là lỗi thường gặp của những người mới học LaTeX).

Những lớp văn bản với nhiều công cụ hơn

Những lớp văn bản cơ bản tương đối đơn giản, nhưng điều này cũng có nghĩa là chúng tương đối bảo thủ về thiết kế và danh sách các câu lệnh được định nghĩa. Qua thời gian, một số lớp văn bản mạnh hơn đã được viết ra, mà cho phép bạn thay đổi thiết kế mà không cần phải làm mọi việc ‘bằng tay’. Ta sẽ nói kỹ hơn ở bài sau.

Hội Toán học Hoa Kỳ (AMS) viết ra một số biến thể của những lớp văn bản gốc, như amsart hay amsbook, với một thiết kế gần hơn với những bài báo, văn bản liên quan đến toán học.

Hai lớp văn bản lớn nhất và thông dụng nhất là hệ thống KOMA-script và lớp văn bản memoir. KOMA-script cho một hệ thống lớp văn bản mới ‘song song’ với các lớp văn bản gốc: scrartcl, scrreprt, scrbookscrlttr2, trong khi memoir giống như một sự phát triển của book.

Những lớp văn bản này có nhiều công cụ giúp bạn thiết kế, ta sẽ khám phá một vài trong số đó trong một bài tập. Bạn có thể hỏi tại sao ta có thể biết đến những công cụ này; ta sẽ nói đến điều đó trong bài cuối, nhưng bạn vẫn luôn có thể ‘nhảy cóc’!

Trình chiếu

Lớp slides được phát triển để tạo ra các trình chiếu vào những năm 1980, vì thế không có hỗ trợ tốt cho việc tạo ra các trình chiếu dựa trên PDF. Có những lớp văn bản hiện đại hơn có thể giúp ta làm điều này; ta sẽ xem xét chúng trong bài bổ sung.

Bài tập

Thử xem việc thay đổi lớp văn bản giữa các lớp gốc, các lớp thuộc hệ thống KOMA-script và memoir ảnh hưởng đến output như thế nào.

\documentclass{article} % Thay đổi lớp văn bản ở đây
\usepackage[T1]{fontenc}

\begin{document}

\section{Introduction}

This is a sample document with some dummy
text\footnote{and a footnote}. This paragraph is quite
long as we might want to see the effect of making the
document have two columns.

\end{document}

Thử thêm tùy biến twocolumn và xem sự thay đổi của output.

Thay \section trong ví dụ trên bằng \chapter và thử xem những tùy biến sau có ảnh hưởng như thế nào lên văn bản khi dùng lớp scrreprt: